Hán dịch: ĐỜI DAO TẦN, NGÀI TAM TẠNG PHÁP SƯ CƯU MA LA THẬP (2)
Dịch Việt: Hoà Thượng THÍCH TRÍ TỊNH
Nguyện đem lòng thành kính
Gởi theo đám mây hương
Phưởng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam Bảo
Thề trọn đời giữ đạo
Theo tự tánh làm lành
Cúng pháp giới chúng sinh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm Bồ Đề kiên cố
Xa bể khổ nguồn mê
Chóng quay về bờ Giác
(Xá rồi đọc tiếp bài kỳ nguyện)
Đấng Pháp Vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời người
Cha lành chung bốn loài
Quy y tròn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận
Phật, chúng sanh, tánh thường rỗng lặng,
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới đế châu ví đạo tràng,
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời,
Trước bảo toạ thân con ảnh hiện ,
Cúi đầu xin thề nguyện quy y.
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vi lai thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam bảo. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo chủ Điều ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương lai Hạ sanh Di Lặc tôn Phật, Đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ pháp Chư tôn Bồ Tát, Linh sơn Hội thượng Phật Bồ Tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây phương Cực Lạc Thế giới Đại từ Đại bi A Di Đà Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát, Đại nguyện Địa Tạng Vương Vương Bồ tát, Thanh tịnh Đại hải chúng Bồ tát. (1 lạy)
Chúng con xin chí thành Sám Hối
Xưa kia gây nên bao ác nghiệp
Đều vì vô thỉ tham sân si
Bởi thân miệng ý phát sanh ra
Hết thảy từ nay xin sám hối
Kim lư vừa bén chiên đàn
Khắp xông pháp giới đạo tràng mười phương
Hiện thành mây báu kiết tường
Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thiền
Pháp thân toàn thể hiện tiền
Chứng minh hương nguyện phước liền ban cho.
Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát.
Ma ha tát. (3 lần)
Án lam. (7 lần)
Tu rị tu rị, ma ha tu rị,
tu tu rị ta ba ha.
(3 lần)
(Trì chú này thì hơi miệng trong sạch)
Án ta phạ, bà phạ thuật đà ta phạ,
đạt mạ ta phạ, bà phạ thuật độ hám.
(3 lần)
(Trì chú này thì thân, miệng, lòng đều trong
sạch).
Án nga nga đẳng, tam bà phạ,
phiệt nhựt ra hồng.
(3 lần)
(Trì chú này thời hoa hương cùng tiếng tụng niệm
sẽ khắp
cúng dường cả mười phương).
Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Ðại Bi Tâm Ðà La Ni.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.
Nam mô tất kiết lật đỏa y mông, a rị da bà lô kiết đế, thất phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô, kiết mông độ lô độ lô, phạt xà da dế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết, tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lỵ thắng yết ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da bà lô yết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha.
Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)
Nam mô Thập phương
Thường trụ Tam Bảo.
(3 lần)
Cúi lạy đấng Tam giới Tôn
Quy mạng cùng mười phương Phật
Con nay phát nguyện rộng
Thọ trì Kinh A Di Đà
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có kẻ thấy nghe
Đều phát lòng Bồ đề
Hết một báo thân này
Sanh qua cõi Cực Lạc
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)
Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Nay con nghe thấy chuyên trì tụng,
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam Mô Liên Trì Hải Hội Phật, Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần)
Tôi nghe như vầy:
Một thuở nọ, đức Phật ở nơi vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc nước Xá Vệ, cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị đại Tỳ kheo câu hội đều là bực đại A la hán mọi người đều quen biết, như là:
Trưởng lão Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp, Ma ha Ca Chiên Diên, Ma ha Câu Hy La, Ly Bà Đa, Châu Lợi Bàn Đà Già, Nan Đà, A Nan Đà, La Hầu La, Kiều Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lư Phả La Đọa, Ca Lưu Đà Di, Ma ha Kiếp Tân Na, Bạc Câu La, A Nâu Lâu Đà… Những vị đại đệ tử như thế và hàng đại Bồ tát: Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, A Dật Đa Bồ tát, Càn Đà Ha Đề Bồ tát, Thường Tinh Tấn Bồ tát... cùng với các vị đại Bồ tát như thế và với vô lượng chư Thiên như ông Thích Đề Hoàn Nhơn v.v... Đại chúng cùng đến dự hội (4).
Bấy giờ đức Phật bảo ngài Trưởng lão Xá Lợi Phất rằng:
Từ đây qua phương Tây quá mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc, trong thế giới đó có đức Phật hiệu là A Di Đà hiện nay đang nói pháp.
Xá Lợi Phất! Cõi đó vì sao tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên nước đó tên là Cực Lạc (6).
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng, vì thế nên nước đó tên là Cực Lạc (7).
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có ao bằng bảy chất báu, trong ao đầy dẫy nước đủ tám công đức, đáy ao thuần dùng cát vàng trải làm đất. Vàng, bạc, lưu ly, pha lê hiệp thành những thềm đường ở bốn bên ao; trên thềm đường có lầu gác cũng đều nghiêm sức bằng vàng bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não. Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe: hoa sắc xanh thì ánh sáng xanh, sắc vàng thì ánh sáng vàng, sắc đỏ thì ánh sáng đỏ, sắc trắng thì ánh sáng trắng, mầu nhiệm thơm tho trong sạch (8).
Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi nước của đức Phật đó, thường trổi nhạc trời, đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáu thời rưới hoa trời Mạn đà la. Chúng sanh trong cõi đó thường vào lúc sáng sớm, đều lấy đãy hoa đựng những hoa tốt đem cúng dường mười muôn ức đức Phật ở phương khác, đến giờ ăn liền trở về bổn quốc ăn cơm xong đi kinh hành (9).
Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
Lại nữa, Xá Lợi Phất! Cõi đó thường có những giống chim màu sắc xinh đẹp lạ thường, nào chim Bạch hạc, Khổng tước, Anh võ, Xá lợi, Ca lăng tần già, Cộng mạng… những giống chim đó ngày đêm sáu thời kêu tiếng hòa nhã. Tiếng chim đó diễn nói những pháp như: ngũ căn, ngũ lực, thất Bồ đề phần, bát Thánh đạo phần v.v... Chúng sanh trong cõi đó nghe tiếng chim xong thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng!
Xá Lợi Phất! Ông chớ cho rằng những giống chim đó thật là do tội báo sanh ra. Vì sao? Vì cõi của đức Phật đó không có ba đường dữ. Xá Lợi Phất! Cõi của đức Phật đó tên đường dữ còn không có huống gì lại có sự thật. Những giống chim đó là do đức Phật A Di Đà muốn làm cho tiếng pháp được tuyên lưu mà biến hóa làm ra đấy thôi (10).
Xá Lợi Phất! Trong cõi nước của đức Phật đó, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và động các mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diệu, thí như trăm nghìn thứ nhạc đồng một lúc hòa chung. Người nào nghe tiếng đó tự nhiên đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Xá Lợi Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
Xá Lợi Phất! Nơi ý ông nghĩ sao? Đức Phật đó vì sao hiệu là A Di Đà?
Xá Lợi Phất! Đức Phật đó, hào quang sáng chói vô lượng, soi suốt các cõi nước trong mười phương không bị chướng ngại vì thế nên hiệu là A Di Đà.
Xá Lợi Phất! Đức Phật đó và nhân dân của Ngài sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, nên hiệu là A Di Đà (11).
Xá Lợi Phất! Đức Phật A Di Đà thành Phật nhẫn lại đến nay, đã được mười kiếp.
Xá Lợi Phất! Lại đức Phật đó có vô lượng vô biên Thanh văn đệ tử đều là bậc A la hán, chẳng phải tính đếm mà có thể biết được, hàng Bồ tát chúng cũng đông như thế.
Xá Lợi Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc, những chúng sanh vãng sanh vào đó đều là bực Bất thối chuyển. Trong đó có rất nhiều vị bực Nhứt sanh bổ xứ, số đó rất đông, chẳng phải tính đếm mà biết được, chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên a tăng kỳ để nói thôi!
Xá Lợi Phất! Chúng sanh nào nghe những điều trên đây, nên phải phát nguyện cầu sanh về nước đó. Vì sao? Vì đặng cùng với các bậc thượng thiện nhơn như thế câu hội một chỗ (12).
Xá Lợi Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhân duyên mà được sanh về cõi đó.
Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào nghe nói đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, một lòng không tạp loạn. Thì người đó đến lúc lâm chung đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh chúng hiện thân ở trước người đó. Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của đức Phật A Di Đà (13).
Xá Lợi Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những lời như thế. Nếu có chúng sanh nào, nghe những lời trên đây, nên phải phát nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc.
Xá Lợi Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Đà. Phương Đông cũng có đức A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật... hằng hà sa số những đức Phật như thế đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam thiên Đại thiên mà nói lời thành thật rằng: Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhứt Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm nầy.
Xá Lợi Phất! Thế giới phương Nam, có đức Nhựt Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tu Di Đăng Phật, Vô Lượng Tinh Tấn Phật... hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam thiên Đại thiên mà nói lời thành thật rằng: Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhứt Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm nầy.
Xá Lợi Phất! Thế giới phương Tây, có đức Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật, Vô Lượng Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại Minh Phật, Bửu Tướng Phật, Tịnh Quang Phật... hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam thiên Đại thiên mà nói lời thành thật rằng: Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhứt Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm nầy.
Xá Lợi Phất! Thế giới phương Bắc, có đức Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nan Trở Phật, Nhựt Sanh Phật, Võng Minh Phật... hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam thiên Đại thiên mà nói lời thành thật rằng: Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhứt Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm nầy.
Xá Lợi Phất! Thế giới phương Dưới, có đức Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang Phật, Đạt Ma Phật, Pháp Tràng Phật, Trì Pháp Phật... hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam thiên Đại thiên mà nói lời thành thật rằng: Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhứt Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm nầy.
Xá Lợi Phất! Thế giới phương Trên, có đức Phạm Âm Phật, Tú Vương Phật, Hương Thượng Phật, Hương Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc Bửu Hoa Nghiêm Thân Phật, Ta La Thọ Vương Phật, Bửu Hoa Đức Phật, Kiến Nhứt Thiết Nghĩa Phật, Như Tu Di Sơn Phật.. hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam thiên Đại thiên mà nói lời thành thật rằng: Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhứt Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm nầy (14).
Xá Lợi Phất! Nơi ý của ông nghĩ thế nào, vì sao tên là Kinh Nhứt Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm?
Xá Lợi Phất! Vì nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào nghe kinh nầy mà thọ trì đó và nghe danh hiệu của các đức Phật, thì những thiện nam tử cùng thiện nữ nhơn ấy đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Xá Lợi Phất! Cho nên các ông đều phải tin nhận lời của Ta và của các đức Phật nói.
Xá Lợi Phất! Nếu có người đã phát nguyện, hiện nay phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi nước của đức Phật A Di Đà, thì những người ấy đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; nơi cõi nước kia, hoặc đã sanh về rồi, hoặc hiện nay sanh về, hoặc sẽ sanh về.
Xá Lợi Phất! Cho nên các thiện nam tử, thiện nữ nhơn nếu người nào có lòng tin thì phải nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.
Xá Lợi Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của các đức Phật, các đức Phật đó cũng ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của Ta mà nói lời nầy:
Đức Thích Ca Mâu Ni Phật hay làm được việc rất khó khăn hy hữu, có thể ở trong cõi ta bà đời ác năm món trược: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược, mà Ngài chứng được ngôi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, Ngài vì các chúng sanh nói kinh pháp mà tất cả thế gian khó tin nầy.
Xá Lợi Phất! Phải biết rằng Ta ở trong đời ác ngũ trược thực hành việc khó nầy: được thành bực Vô thượng Chánh giác và vì tất cả thế gian nói kinh pháp khó tin nầy, đó là rất khó (15)!
Đức Phật nói kinh nầy rồi, ngài Xá Lợi Phất cùng các vị Tỳ kheo, tất cả trong đời: trời, người, A tu la v.v... nghe lời của đức Phật dạy, đều vui mừng tin nhận đảnh lễ Phật mà lui ra.
Phật Nói Kinh A Di Đà
1 Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-Lạc thế giới Di-Đà Hải-Hội, Vô-Lượng-Quang-Như Lai.
2 Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-Lạc thế giới Di-Đà Hải-Hội, Vô-Biên-Quang-Như Lai.
3 Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-Lạc thế giới Di-Đà Hải-Hội, Vô-Ngại -Quang-Như Lai.
4 Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-Lạc thế giới Di-Đà Hải-Hội, Vô-Đối-Quang-Như Lai.
5 Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-Lạc thế giới Di-Đà Hải-Hội, Diệm-Vương -Quang-Như Lai.
6 Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-Lạc thế giới Di-Đà Hải-Hội, Thanh-Tịnh-Quang-Như Lai.
7 Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-Lạc thế giới Di-Đà Hải-Hội, Hoan-Hỉ -Quang-Như Lai.
8 Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-Lạc thế giới Di-Đà Hải-Hội, Trí-Huệ-Quang-Như Lai.
9 Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-Lạc thế giới Di-Đà Hải-Hội, Nan-Tư -Quang-Như Lai.
10 Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-Lạc thế giới Di-Đà Hải-Hội, Bất-Đoạn-Quang-Như Lai.
11 Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-Lạc thế giới Di-Đà Hải-Hội, Vô-Xưng-Quang-Như Lai.
12 Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-Lạc thế giới Di-Đà Hải-Hội, Siêu-Nhựt-Nguyệt-Quang-Như Lai.
Bồ tát Quán tự tại
Khi quán chiếu thâm sâu
Bát nhã Ba La Mật
Bỗng soi thấy năm uẩn
Đều không có tự tánh
Thực chứng điều ấy xong
Ngài vượt thoát tất cả
Mọi khổ đau ách nạn
"Nghe đây Xá Lợi Tử"
Sắc chẳng khác gì không
Không chẳng khác gì sắc
Sắc chính thực là không
Không chính thực là sắc
Còn lại bốn uẩn kia
Cũng đều như vậy cả
"Xá Lợi Tử nghe đây"
Thể mọi pháp đều không
Không sanh cũng không diệt
Không nhơ cũng không sạch
Không thêm cũng không bớt
Cho nên trong tánh không
Không có sắc thọ tưởng
Cũng không có hành thức
Không có nhãn, nhĩ, tỷ,
Thiệt, thân, ý, sáu căn
Không có sắc, thanh, hương
Vị, xúc, pháp sáu trần
Không có mười tám giới
Từ nhãn đến ý thức
Không hề có vô minh
Cho đến không lão tử
Cũng không hề lão tử
Không khổ, tập, diệt, đạo
Không trí cũng không đắc
Vì không có sở đắc
Nên một vị Bồ Tát
Nương diệu pháp trí độ
Tâm không còn chướng ngại
Vì tâm không chướng ngại
Nên không có sợ hãi
Xa lìa mọi mộng tưởng
Xa lìa mọi điên đảo
Đạt Niết Bàn tuyệt đối
Chư Phật trong ba đời
Ý diệu pháp trí độ
Nên đắc vô thượng giác
Vậy nên phải biết rằng
Bát Nhã Ba La Mật
Là linh chú đại thần
Là linh chú đại minh
Là linh chú vô thượng
Là linh chú tuyệt đỉnh
Là chân lý bất vọng
Có năng lực tiêu trừ
Tất cả mọi khổ nạn
Cho nên tôi muốn nói
Câu thần chú trí độ
Bát Nhã Ba La Mật
Nói xong Đức Bồ Tát
Liền đọc thần chú rằng:
"Yết đế, yết đế,
Ba là yết đế
Ba la tăng yết đế
Bồ đề Tát bà ha".
Nam mô A di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ,
Đa điệt dạ tha, a di rị đô bà tỳ,
A di rị đa tất đam bà tỳ,
A di rị đa tỳ ca lan đế,
A di rị đa tỳ ca lan đa,
Gì di nị, già già na,
Chỉ đa ca lệ, ta bà ha.
(3 lần)
Thân Phật Di Đà sắc vàng ròng,
Tướng tốt sáng ngời không gì sánh,
Bạch hào uyển chuyển năm Tu Di,
Mắc biếc lắng trong bốn bể lớn,
Vô số hoá Phật trong hào quang,
Chúng hoá Bồ tát cũng vô biên,
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát.
Nam mô Tây phương Cực Lạc Thế giới, Đại từ Đại bi, Tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật.
(3 lần)
Nam mô A Di Đà Phật.
(10 lần)
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
(3 lần)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
(3 lần)
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
(3 lần)
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát.
(3 lần)
Muốn đi có một đường nầy,
Nhứt tâm niệm Phật khó gì thoát ra,
Vậy khuyên phải niệm Di-Đà,
Hồng danh sáu chữ thật là rất cao.
Hay trừ tám vàn trần lao,
Tham thiền quán tưởng pháp nào cũng thua,
Di-Đà xưa cũng làm vua,
Bỏ ngối bỏ nước vô chùa mà tu,
Xét ra từ kiếp đã lâu,
Hiệu là Pháp-Tạng-Tỳ-kheo đó mà.
Trong khi ngài mới xuất gia,
Bốn mươi tám nguyện phát ra một lần.
Nguyện nào cũng lắm oai thần,
Nguyện nào cũng trọng về phần độ sanh,
Vì thương thế giới bất bình,
Nên chi đầu Phật mà đành bỏ ngôi,
Thầy là Bảo-Tạng Như-Lai,
Bạn là Bảo-Hải tức Ngài Thích-Ca
Thích-Ca nguyện độ Ta-bà,
Di-Đà nguyện mở cửa nhà Lạc-bang,
Mở ao chín phẩm sen vàng,
Xây thành ba bảo đồ đàn thất trân.
Lưu ly quả đất sáng ngần,
Lầu châu gác ngọc mười phần trang nghiêm.
Hoa trời rưới cả ngày đêm,
Có cây rất báu có chim rất kỳ,
Lạ lùng cái cảnh Phương Tây,
Mười phương cõi Phật cảnh nào cũng thua.
Phong quang vui vẻ bốn mùa,
Nước reo Pháp Phật gió khua nhạc trời.
Di Đà có thệ một lời,
Mở ra cõi ấy tiếp người vãng sanh,
Mười phương ai phát lòng thành,
Nhất tâm mà niệm hồng danh của Ngài.
Hằng ngày trong lúc hôm mai,
Niệm từ mười tiếng đến vài ba trăm,
Khi đi, khi đứng, khi nằm,
Chuyên trì niệm Phật, lòng chăm phát nguyền.
Nguyện sanh về cõi Bảo Liên,
Là nơi Cực Lạc ở miền Tây phương,
Đến khi thọ mạng vô thường,
Thì Ngài phóng ngọn hào quang rước liền,
Biết bao phước đức nhơn duyên,
Đã về Cực-Lạc còn phiền não chi,
Sự vui trời cũng chẳng bì,
Đêm đêm thong thả ngày ngày vui chơi,
Sống lâu kiếp kiếp đời đời,
Không già không chết không dời đi đâu.
Nguyện đến lúc con sắp lâm chung
Sạch trừ tất cả những chướng ngại
Tận mắt thấy Đức A Di Đà
Liền được vãng sanh về Cực Lạc
Phật kia, chúng hội đều thanh tịnh
Con liền từ thẳng hoa sen sanh
Thấy rõ Đức Phật Vô Lượng quang
Hiền tiền trao con "Bồ đề ký"
Được Đức Như Lai thọ ký xong
Con hoá vô số trăm ức thân
Sức trí rộng lớn khắp mười phương
Lợi ích tất cả cõi chúng sanh.
Trì tụng kinh thâm diệu
Tạo công đức vô biên
Đệ tử xin hồi hướng
Cho chúng sanh mọi miền
Pháp môn xin cầu học
Ân nghĩa xin nguyện đền
Phiền não thề nguyện đoạn
Quả Phật xin chứng nên
Nguyện sanh về tịnh độ
Sen nở thấy vô sanh
Chư Phật và Bồ Tát
Là những bạn đồng hành
Nguyện dứt hết não phiền
Cho trí huệ phát sinh
Các tội chướng tiêu tan
Quả giác ngộ viên thành
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo
Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát lòng Vô thượng.
(1 lạy)
Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rõ kinh tạng, trí huệ như biển.
(1 lạy)
Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại.
(1 lạy)
1 Trong kinh nầy, đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuật nói chánh báo và y báo thù thắng trang nghiêm của đức A Di Đà Phật.
2 Triều Tấn (Tàu), Dao Hưng chiếm một phần đất xưng vương, quốc hiệu là Tần nên gọi là Dao Tần.
Bậc thông hiểu tam tạng: kinh, luật và luận, có thể giảng nói để dạy mọi người nên gọi là Tam tạng Pháp sư.
Ngài Cưu Ma La Thập người xứ Thiên Trúc, qua Tàu làm một nhà dịch kinh chữ Phạn ra chữ Tàu có danh tiếng nhất.
3 Ông Cấp Cô Độc Trưởng giả mua khu vườn của ông Kỳ Đà Thái tử, con vua Ba Tư Nặc, nước Xá Vệ. Thái tử cúng luôn rừng cây trong đó, rồi hai người chung sức nhau dựng Tinh xá để thỉnh Phật cùng chúng hội về ở. Do đó nên hiệp cả hai tên của hai người để đặt tên chốn ấy mà gọi là Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên vậy.
Đệ tử của đức Phật rất đông, không phải chỉ có 1.250 người, nhưng vì 1.250 vị đại A la hán nầy là những vị được Phật độ trước và theo hầu cận bên Phật luôn, nên trong kinh thường ước lược nói số đó.
4 A Dật Đa là tên của đức Di Lặc Bồ tát.
Càn Đà Ha Đề Bồ tát là ngài Bất Hưu Tức Bồ tát.
Thích Đề Hoàn Nhân là tên của Đế Thích, vua cõi trời Đao Lợi.
5 Y báo là chỗ nương ở, nhà cửa, ao vườn v.v... gọi chung là cõi nước, trong đây y báo là nước Cực Lạc.
Chánh báo là quả báo chánh thể, tức là loài người, trời, chim thú v.v... trong đây chánh báo là đức Phật A Di Đà cùng Bồ tát, Thanh văn v.v...
6 Cõi nước ta đương ở đây gọi là ta bà có không biết bao nhiêu điều khổ lụy, nào tam khổ, bát khổ v.v... Trái lại, bên cõi Cực Lạc chỉ thuần có những điều vui sướng, nào tam lạc, bát lạc v.v…
1. Khổ khổ: mang thân sắc người nặng nề, nhơ uế, sống nay chết mai nầy đã khổ lắm rồi, mà trên cái khổ đó lại còn chồng thêm không biết bao nhiêu là sự khổ khác nữa, như già, bệnh, đói khát, nóng rét v.v...
2. Hoại khổ: vô thường biến đổi, thân mạng như chỉ mành, tang thương xoay chuyển, như sương đầu cỏ, như móc buổi mai.
3. Hành khổ: trong mỗi niệm, tâm tưởng, thiên chuyển luôn không dừng...
1. Sanh khổ: ở thai bào tối tăm nhơ uế, lọt lòng đau khổ trăm bề…
2. Lão khổ: lụm cụm già nua, mắt mờ tai điếc, trí lãng, thần hôn, lưng mỏi, gối dùn, mặt nhăn đầu bạc...
3. Bệnh khổ: đau rên bứt rứt, nhức nhối xót xa, ngồi nằm không yên, đi đứng không ổn...
4. Tử khổ: ngộp mệt không ngằn, lộn tròng, méo miệng, chuyển xương, gân rút...
5. Cầu bất đắc khổ: lợi danh không toại, muốn phước trở mang họa, cầu thọ mà yểu vong...
6. Ái biệt ly khổ: cốt nhục phân tán, sanh biệt tử ly...
7. Oán tắng tội khổ: oan gia đối đầu, cừu thù gặp gỡ.
8. Ngũ ấm xí thạnh khổ: thân tâm dời đổi biến diệt, phút phút chẳng dừng, như ngọn lửa phừng không khác…
1. Lạc trung lạc: thân cùng độ đều thù thắng, thân nhẹ, cõi xinh, ấm no, khương kiện...
2. Bất biến hoại lạc: thân mạng trường tồn, cõi nước không thiêu diệt...
3. Bất động trí lạc: định huệ dung thông, chánh trí bất động...
1. Sanh lạc: thác chất liên hoa, thanh tịnh hóa sanh...
2. Vô lão lạc: mãi mãi trẻ trung, không già không yếu...
3. Vô bịnh lạc: hằng hằng khương kiện, không bệnh, không đau...
4. Vô tử lạc: thọ mạng vô cùng, trường sanh bất diệt...
5. Toại nguyện lạc: tùy ý quả toại, y thực tự nhiên...
6. Vô ái biệt ly lạc: bạn lành hải chúng, thân cận không rời...
7. Vô oán tắng hội lạc: thuần là thượng thiện nhơn, đồng tâm xứng ý...
8. Vô ngũ ấm thạnh lạc: thân tâm thanh tịnh, thường trụ không dời...
Không đâu khổ bằng ta bà, không đâu vui bằng Cực Lạc, vì thế mọi người nên nhàm lìa chốn ta bà mà nguyện về chốn Cực Lạc!
7 Bốn báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê. Trong đây nói bốn báu mà chính là gồm bảy báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ,xích châu, và mã não. Trong Quán Kinh nói: hoặc có thứ cây thuần bằng vàng, hoặc có thứ cây thuần bằng bạc v.v... hoặc có thứ cây thân vàng, lá bạc, nhánh lưu ly v.v...
Dầu bằng chất thất bửu chớ vẫn là cây sống, cũng như cây bên nầy bằng chất gỗ.
8 Trong đây nói đất (địa) đó là chỉ thuận theo tiếng nầy mà gọi thế, chớ chính thật cõi Cực Lạc thuần bằng chất vàng... Tuyệt không có thứ đất bùn cát sỏi.
Tám công đức của nước trong ao bên Cực Lạc:
1. Trong sạch
2. Nhẹ nhàng
3. Mát mẻ
4. Ngon ngọt
5. Đượm thuần
6. Êm đềm hòa huỡn
7. Uống vào hết đói khát
8. Bổ khỏe thân tâm.
9 Người trong nước Cực Lạc đều có thần túc thông, trong nháy mắt có thể đi trải qua vô lượng thế giới.
Đi kinh hành là đi vòng quanh chậm rãi, vừa đi vừa suy gẫm tưởng niệm những pháp lành: Phật, Pháp và Tăng v.v... Đi kinh hành có hai điều lợi ích:
1. Thâu nhiếp tâm tưởng vào chánh niệm, phục trừ tà niệm loạn tưởng cùng biếng lười ngủ nghỉ.
2. Điều hoà thân thể, huyết khí lưu thông, tiêu hóa dễ dàng.
10 Tín, tấn, niệm, định, huệ: người tu hành có năm đức nầy thời vững chắc trên đường đạo như cây có rễ nên gọi là ngũ căn (cội rễ).
Nếu tất cả cảnh duyên không thể khuấy rối làm lay động được, thời năm đức trên gọi là ngũ lực (sức mạnh).
Thất Bồ đề Phần cũng gọi là thất giác chi (7 đức giác ngộ) là: Trạch pháp, Niệm, Tinh tấn, Hỷ, Khinh an, Định, Xả.
Bát thánh đạo phần là: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Ở trong cõi ta bà nầy, những loài chim nhiếp thuộc vào súc sanh đạo, một ác đạo trong lục đạo, do ác nghiệp tội khiên mà chiêu cảm ra khổ báo ấy. Chim bên Cực Lạc thời khác hẳn, không phải là giống vật do tội báo cảm vời sanh ra, mà do thần lực của đức A Di Đà biến hóa ra để làm cho pháp âm được lưu chuyển khắp trong nước.
11 Đoạn nầy là đức Phật Thích Ca tự định danh nghĩa của ba tiếng A Di Đà, vì có hai điều vô lượng: 1) Vô lượng quang, 2) Vô lượng thọ, nên đức Phật bên nước Cực Lạc hiệu là A Di Đà.
12 A bệ bạt trí (Phạm âm) Hán dịch là bất thối chuyển, vào bậc nầy thời một mực đi trên đường thánh, thẳng đến thành Phật, không còn bị thối sụt xuống phàm phu hay tiểu thừa nữa. Tất cả mọi người được sanh về cõi Cực Lạc đều vào bậc bất thối cả, trong hàng bất thối lại có vô số bậc Nhứt sanh bổ xứ Bồ tát (vì Bồ tát chỉ còn là Bồ tát trong một đời hiện tại, mãn đời hiện tại thời thành Phật, như hiện nay đức Di Lặc Bồ tát ở cung trời Đâu Suất nội viện là bậc Nhứt sanh bổ xứ Bồ tát vậy).
Các bậc thượng thiện nhơn là chỉ các bậc Nhứt sanh bổ xứ Bồ tát.
13 Cõi Cực Lạc rất thù thắng trang nghiêm, phải có nhiều căn lành phước đức mới được sanh về đó. Niệm Phật được nhất tâm bất loạn thời là thành tựu căn lành phước đức rất lớn, đến khi lâm chung đức Phật A Di Đà cùng Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát..v.v.. phóng quang đến rước, quyết định đặng sanh cõi Cực Lạc.
- Niệm Phật không còn có móng tưởng gì khác, không có mảy may thinh sắc gì khác xen vào, vững vàng không xao động gọi là nhứt tâm bất loạn.
14 Người tu Tịnh độ phải có đủ ba điều: Tín (tin thật), Hạnh (chuyên tâm niệm Phật..v.v…) Nguyện (thiết tha muốn được sanh về cõi Cực Lạc) Trong ba điều nầy, lòng tin đứng trước cả mà cũng là nền tảng của tất cả căn lành vì thế nên chư Phật ở sáu phương đồng khuyên bảo, cho mọi người sanh lòng tin chắc chắn quyết định.
- Hằng hà sa số: là số cát sông Hằng. Sông Hằng là con sông lớn bên Thiên Trúc, nguồn từ dãy núi Hy Mã, chảy ngang xứ Thiên Trúc, đổ vào Ấn Độ Dương. Lòng sông và hai bên bãi có cát rất nhiều và rất mịn. Đương thời đức Phật thường nói pháp gần bên sông, nên phàm khi muốn chỉ một số lớn quá nhiều thời mượn số cát trong sông Hằng mà nói.
- Tướng lưỡi rộng dài biểu tượng của sự thành thật. Trong kinh nói người nào chót lưỡi liếm đến đầu mũi, thời người ấy trong ba đời đã qua không hề có một lời nói dối. Lưỡi dài liếm đến đầu mũi còn như thế, huống nữa là rộng dài trùm khắp cả thế giới?
- Một thái dương hệ là một tiểu thế giới. Một nghìn tiểu thế giới là một tiểu thiên thế giới. Một nghìn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới. Một nghìn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới. Trải qua ba lần nhân cho số nghìn, nên gọi là tam thiên đại thiên thế giới (1 tiểu thế giới x 1.000 x 1.000 x 1.000 = 1 đại thiên thế giới).
Đại thiên thế giới của ta ở đây tên là ta bà (Phạm âm) dịch là Kham nhẫn ngụ ý rằng trong cõi nầy có vô lượng sự thống khổ, mà chúng sanh trong đó vẫn kham chịu được.
15 Ngũ trựơc:
1. Kiếp trược: Kiếp là chỉ cho thời đại, thời gian. Trong thời đại nào mà có các món trược dưới đây thời là thời đại đục nhơ.
2. Kiến trược: Những điều mê chấp, tà kiến, điên đảo v.v…
3. Phiền não trược: Các tâm niệm bất thiện như tham, sân, si, mạn bất tín v.v…
4. Chúng sanh trược: Năm ấm (sắc, thọ,...) hiệp hội sanh diệt chẳng dừng.
5. Mạng trược: Số thọ rất ngắn, sống nay chết mai, mạng sống trong chừng hơi thở v.v…
Năm món trên đây tánh cách nhiễu não, sai lầm, thiên biến vô thường nên đều gọi là trược (nhơ đục).
Kinh Điển Phật Pháp
Trí Tịnh Toàn Tập