Dịch Việt: Hoà Thượng THÍCH TRÍ TỊNH
Đấng Pháp vương vô thượng,
Ba cõi chẳng ai bằng,
Thầy dạy khắp trời người,
Cha lành chung bốn loài.
Quy y tròn một niệm,
Dứt sạch nghiệp ba kỳ,
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận
Phật, chúng sanh, tánh thường rỗng lặng,
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới đế châu ví đạo tràng,
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời,
Trước bảo toạ thân con ảnh hiện ,
Cúi đầu xin thề nguyện quy y.
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vi lai thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam bảo. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo chủ Điều ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương lai Hạ sanh Di Lặc tôn Phật, Đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ pháp Chư tôn Bồ Tát, Linh sơn Hội thượng Phật Bồ Tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây phương Cực Lạc Thế giới Đại từ Đại bi A Di Đà Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát, Đại nguyện Địa Tạng Vương Vương Bồ tát, Thanh tịnh Đại hải chúng Bồ tát. (1 lạy)
Lò hương vừa nhen nhúm
Pháp giới đã được xông
Các Phật trong hải hội đều xa hay
Theo chỗ kết mây lành
Lòng thành mới ân cần
Các Phật hiện toàn thân
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát
Ma ha tát. (3 lần)
Án lam. (7 lần)
Tu rị tu rị, ma ha tu rị,
tu tu rị ta ba ha.
(3 lần)
(Trì chú này thì hơi miệng trong sạch)
Án ta phạ, bà phạ thuật đà ta phạ,
đạt mạ ta phạ, bà phạ thuật độ hám.
(3 lần)
(Trì chú này thì thân, miệng, lòng đều trong
sạch).
Án nga nga đẳng, tam bà phạ,
phiệt nhựt ra hồng.
(3 lần)
(Trì chú này thời hoa hương cùng tiếng tụng niệm
sẽ khắp
cúng dường cả mười phương).
Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Ðại Bi Tâm Ðà La Ni.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.
Nam mô tất kiết lật đỏa y mông, a rị da bà lô kiết đế, thất phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô, kiết mông độ lô độ lô, phạt xà da dế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết, tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lỵ thắng yết ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da bà lô yết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha.
Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)
Nam mô Thập phương
Thường trụ Tam Bảo.
(3 lần)
Cúi lạy đấng Tam giới Tôn
Quy mạng cùng mười phương Phật
Con nay phát nguyện rộng
Thọ trì Kinh Pháp Hoa
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có kẻ thấy nghe
Đều phát lòng Bồ đề
Hết một báo thân này
Sanh qua cõi Cực Lạc
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)
Pháp vi diệu rất sâu vô lượng
Trăm nghìn muôn ức kiếp khó gặp
Con này thấy nghe được thọ trì
Nguyện hiểu nghĩa chơn thật của Như Lai
Hơn sáu muôn lời thành bảy cuốn
Rộng chứa đựng vô biên nghĩa màu
Trong cổ nước cam lồ rịn nhuần
Trong miệng chất đề hồ nhỏ mát
Bên răng ngọc trắng tuông Xá lợi
Trên lưỡi sen hồng phóng hào quang
Dầu cho tạo tội hơn núi cả
Chẳng nhọc Diệu Pháp vài ba hàng.
Nam mô Pháp Hoa Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3 lần)
1. Lúc bấy giờ, Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vài hữu, chắp tay hướng Phật mà bạch rằng: "Thế Tôn! Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát do nhơn duyên gì mà tên là Quán Thế Âm?".
Phật bảo Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát: "Thiện nam tử!" Nếu có Vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các khổ não, nghe Quán Thế Âm Bồ Tát này một lòng xưng danh. Quán Thế Âm Bồ Tát tức thời xem xét tiếng tăm kia, đều đặng giải thoát".
Nếu có người trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát này, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy đặng, vì do sức oai thần của Bồ Tát này vậy.
Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ Tát này liền đặng chỗ cạn.
Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, chơn châu các thứ báu, nên vào trong biển lớn, giả sử gió lớn thổi ghe thuyền của kia trôi tấp nơi nước quỷ La Sát, trong ấy nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thời các người đó đều đặng thoát khỏi nạn quỷ La Sát. Do nhơn duyên đó mà tên là Quán Thế Âm.
2. Nếu lại có người sắp sẽ bị hại, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thời dao gậy của người cầm liền gãy từng khúc, mà đặng thoát khỏi.
Nếu quỷ Dạ Xoa cùng La Sát đầy trong cõi Tam thiên đại thiên muốn đến hại người, nghe người xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thời các quỷ dữ đó còn không có thể dùng mắt dữ mà nhìn người, huống lại làm hại đặng.
Dầu lại có người hoặc có tội, hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thảy đều đứt rã, liền đặng thoát khỏi.
Nếu kẻ oán tặc đầy trong cõi Tam thiên đại thiên, có một vị thương chủ dắt các người buôn đem theo nhiều của báu, trải qua nơi đường hiểm trở, trong đó có một người xướng rằng: "Các thiện nam tử! Chớ nên sợ sệt, các ông nên phải một lòng xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, vị Bồ Tát đó hay đem Pháp vô uý thí cho chúng sanh, các ông nếu xưng danh hiệu thời sẽ đặng thoát khỏi oán tặc này".
Các người buôn nghe rồi, đều lên tiếng xưng rằng: "Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát!", vì xưng danh hiệu Bồ Tát nên liền đặng thoát khỏi.
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Đại Bồ Tất sức oai thần cao lớn như thế.
3. Nếu có chúng sanh nào nhiều lòng dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền đặng ly dục.
Nếu người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền đặng lìa lòng giận.
Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền đặng lìa ngu si.
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát có những sức oai thần lớn, nhiều lợi ích như thế cho nên chúng sanh phải một lòng tưởng nhớ.
Nếu có người nữ, giả sử muốn cầu con trai, lễ lại cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát, liền sanh con trai phước đức trí huệ; giả sử muốn cầu con gái, bèn sanh con gái có tướng xinh đẹp, trước đã trồng cội phước đức, mọi người đều kính mến.
Vô Tận Ý! Quan Thế Âm Bồ Tát có sức thần như thế.
4. Nếu có chúng sanh cung kính lễ lạy Quán Thế Âm Bồ Tát, thời phước đức chẳng luống mất. Cho nên chúng sanh đều phải thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát.
Vô Tận Ý! Nếu có người thọ trì danh tự của sáu mươi ức hằng hà sa Bồ Tát, lại trọn đời cũng dường đồ ăn uống, y phục, giường nằm, thuốc thang. "Ý ông nghĩ sao? Công đức của người thiện nam tử, thiện nữ nhơn đó có nhiều chăng?"
Vô Tận Ý thưa: "Bạch Thế Tôn! Rất nhiều". Phật nói: "Nếu lại có người thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, nhẫn đến một thời lễ lạy cúng dường, thời phước của hai người đó bằng nhau không khác, trong trăm nghìn muôn ức kiếp không thể cùng tận.
Vô Tận Ý! Thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát đặng vô lượng vô biên phước đức lợi ích như thế.
Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật rằng: "Thế Tôn Quán Thế Âm Bồ Tát dạo đi trong cõi Ta bà như thế nào? Nói pháp cho chúng sanh như thế nào? Sức phương tiện việc đó thế nào?".
Phật bảo Vô Tận Ý Bồ Tát: Thiện nam tử! Nếu có chúng sanh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật đặng độ thoát, thời Quán Thế Âm Bồ Tát liền hiện thân Phật mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Duyên Giác đặng độ thoát, liền hiện thân Duyên Giác mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Thanh Văn đặng độ thoát, liền hiện thân Thanh Văn mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Đế Thích đặng độ thoát, liền hiện thân Đế Thích mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tự Tại Thiên đặng độ thoát, liền hiện thân Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên đặng độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tỳ Sa Môn đặng độ thoát, liền hiện thân Tỳ Sa Môn mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tiểu Vương đặng độ thoát, liền hiện thân Tiểu Vương mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Trưởng Giả đặng độ thoát, liền hiện thân Trưởng Giả mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Cư Sĩ đặng độ thoát, liền hiện thân Cư Sĩ mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tể Quan đặng độ thoát, liền hiện thân Tể Quan mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Bà La Môn đặng độ thoát, liền hiện thân Bà La Môn mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di đặng độ thoát, liền hiện thân Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân phụ nữ của Trưởng giả, Cư sĩ, Tể quan, Bà la môn đặng độ thoát, liền hiện thân phụ nữ mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân đồng nam, đồng nữ đặng độ thoát liền hiện thân đồng nam, đồng nữ mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, Nhơn cùng Phi nhơn đặng độ thoát, liền đều hiện ra mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Chấp Kim Cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Cang thần mà vì đó nói pháp.
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát đó thành tựu công đức như thế, dùng các thân hình, dạo đi trong các cõi nước để độ thoát chúng sanh, cho nên các ông phải một lòng cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát.
Quán Thế Âm Đại Bồ Tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt hay ban sự vô uý, cho nên cõi Ta bà này đều gọi Ngài là vị "Thí Vô Uý".
6. Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Con nay phải cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát". Liền mở chuỗi ngọc bằng các châu báu nơi cổ giá trị trăm ngàn lượng vàng, đem trao cho Ngài Quán Thế Âm mà nói rằng: "Xin Ngài nhận chuỗi trân bảo pháp thí này".
Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát chẳng chịu nhận chuỗi. Ngài Vô Tận Ý lại thưa cùng Quán Thế Âm Bồ Tát rằng: "Xin Ngài vì thương chúng tôi mà nhận chuỗi ngọc này".
Bấy giờ, Phật bảo Quán Thế Âm Bồ Tát: "Ông nên thương Vô Tận Ý Bồ Tát này và hàng tứ chúng cùng Trời, Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, Nhơn và Phi Nhơn v.v... mà nhận chuỗi ngọc đó".
Tức thời Quán Thế Âm Bồ Tát thương hàng tứ chúng và Trời, Rồng, Nhơn, Phi nhơn v.v... mà nhận chuỗi ngọc đó chia làm hai phần: một phần dâng Đức Thích Ca Mâu Ni Phật, một phần dâng tháp của Phật Đa Bảo.
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát có sức thần tự tại như thế, dạo đi nơi cõi Ta bà.
Lúc đó Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát nói kệ hỏi Phật rằng:
7. Thế Tôn đủ tướng tốt!
Con nay lại hỏi kia
Phật tử nhơn duyên gì
Tên là Quán Thế Âm
Đấng đầy đủ tướng tốt
Kệ đáp Vô Tận Ý:
Ông nghe hạnh Quán Âm
Khéo ứng các nơi chỗ
Thệ rộng sâu như biển
Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn
Hầu nhiều nghìn ức Phật
Phát nguyện thanh tịnh lớn.
Ta vì ông lược nói
Nghe tên cũng thấy thân
Tâm niệm chẳng luống qua
Hay diệt khổ các cõi.
Giả sử sanh lòng hại
Xô rớt hầm lửa lớn
Do sức Niệm Quán Âm
Hầm lửa biến thành ao.
Hoặc trôi dạt biển lớn
Các nạn quỷ cá rồng
Do sức niệm Quán Âm
Sóng mòi chẳng chìm đặng.
Hoặc ở chót Tu di
Bị người xô rớt xuống
Do sức niệm Quán Âm
Như mặt nhựt treo không.
Hoặc bị người dữ rượt
Rớt xuống núi Kim cang
Do sức niệm Quán Âm
Chẳng tổn đến mảy lông.
Hoặc gặp oán tặc vây.
Đều cầm dao làm hại
Do sức niệm Quán Âm
Đều liền sanh lòng lành.
Hoặc bị khổ nạn vua
Khi hành hình sắp chết
Do sức niệm Quán Âm
Dao liền gãy từng đoạn
Hoặc tù cầm xiềng xích
Tay chân bị gông cùm
Do sức niệm Quán Âm
Tháo ra đặng giải thoát
Nguyền rủa các thuốc độc
Muốn hại đến thân đó
Do sức niệm Quán Âm
Trở lại nơi bổn nhơn
Hoặc gặp La sát dữ
Rồng độc cái loài quỷ
Do sức niệm Quán Âm
Liền đều không dám hại.
Hoặc thú dữ vây quanh
Nanh vuốt nhọn đáng sợ
Do sức niệm Quán Âm
Vội vàng bỏ chạy thẳng.
Rắn độc cùng bò cạp
Hơi độc khói lửa đốt
Do sức niệm Quán Âm
Theo tiếng tự bỏ đi
Mây sấm nổ sét đánh
Tuông giá xối mưa lớn
Do sức niệm Quán Âm
Liền đặng tiêu tan cả.
Chúng sanh bị khổ ách
Vô lượng khổ bức thân
Quán Âm sức trí diệu
Hay cứu khổ thế gian
Đầy đủ sức thần thông
Rộng tu trí phương tiện
Các cõi nước mười phương
Không cõi nào chẳng hiện.
Các loài trong đường dữ
Địa ngục, Quỷ, Súc sanh
Sanh, già, bịnh, chết, khổ
Lần đều khiến dứt hết.
Chơn quán thanh tịnh quán
Trí huệ quán rộng lớn
Bi quán và từ quán,
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng
Sáng thanh tịnh không nhơ
Huệ, nhựt phá cát tối
Hay tiêu tai khói lửa
Khắp soi sáng thế gian.
Lòng bi răng như sấm
Ý từ diệu dường mây
Xối mưa pháp cam lồ
Dứt trừ lửa phiền não
Cãi kiện qua chỗ quan
Trong quân trận sợ sệt
Do sức niệm Quán Âm
Cừu oán đều lui tan.
Diệu Âm, Quán Thế Âm
Phạm Âm, Hải Triều Âm
Tiếng hơn thế gian kia
Cho nên thường phải niệm.
Niệm niệm chớ sanh nghi
Quán Âm bực Tịnh thánh
Nơi khổ não nạn chết
Hay vì làm nương cậy.
Đủ tất cả công đức
Mắt lành trong chúng sanh
Biển phước lớn không lường
Cho nên phải đảnh lễ.
8. Bấy giờ, Ngài Trì Địa Bồ Tát lièn từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật bạch rằng: "Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nào nghe phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát đạo nghiệp tự tại, Phổ Môn thị hiện sức thần thông này thời phải biết công đức người đó chẳng ít".
Lúc Phật nói phẩm Phổ Môn này, trong chúng có tám muôn bốn nghìn chúng sanh đều phát tâm vô đẳng đẳng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Án, đa rị đa rị, đốt đa rị, đốt đốt đa rị, ta bà ha.
(3 lần)
Án, ma mi bát di hồng. (21 lần)
Phổ môn hiện rõ ở Ta Bà,
Chúng sanh kêu cứu khắp gần xa,
Từ bi thuyết pháp tuỳ loài hiện,
Tám nạn ba tai chẳng đến nhà.
1. Nam mô hiệu Viên Thông danh Tự Tại, Quán Âm Như Lai, quảng phát hoằng thệ nguyện.
(1 lạy)
2. Nam mô nhứt niệm tâm vô quái ngại, Quán Âm Như Lai, thường cư Nam Hải nguyện.
(1 lạy)
3. Nam mô trụ Ta Bà, U minh giới, Quán Âm Như Lai, tầm thinh cứu khổ nguyện.
(1 lạy)
4. Nam mô hàng ta ma, trừ yêu quái, Quán Âm Như Lai, năng trừ nguy hiểm nguyện.
(1 lạy)
5. Nam mô thanh tịnh bình thuy dương liễu, Quán Âm Như Lai, cam lồ sái tâm nguyện.
(1 lạy)
6. Nam mô đại từ bi, năng hỷ xả, Quán Âm Như Lai, thường hành bình đẳng nguyện.
(1 lạy)
7. Nam mô trú dạ tuần vô tổn hoại, Quán Âm Như Lai, thệ diệt tam đồ nguyện.
(1 lạy)
8. Nam mô vọng nam nham, cần lễ bái, Quan Âm Như Lai, già tỏa giải thoát nguyện.
(1 lạy)
9. Nam mô tạo pháp thuyền du khổ hải, Quán Âm Như Lai, độ tận chúng sanh nguyện.
(1 lạy)
10. Nam mô triền tràng phan, hậu bảo cái, Quán Âm Như Lai, tiếp dẫn Tây phương nguyện.
(1 lạy)
11. Nam mô Vô Lượng Thọ Phật cảnh giới, Quán Âm Như Lai, Di Đà thọ ký nguyện.
(1 lạy)
12. Nam mô đoan nghiêm thân vô tỷ tái, Quán Âm Như Lai, quả tu thập nhị nguyện.
(1 lạy)
Quan Âm Bồ tát hiệu Viên Thông,
Mười hai nguyện lớn rộng mênh mông,
Cứu giúp mọi người trong biển khổ,
Từ bi độ chúng khắp non sông.
Nam mô Thanh Quan Tự Tại Bồ Tát.
Ma ha tát. (3 lần)
Bồ tát Quán tự tại
Khi quán chiếu thâm sâu
Bát nhã Ba La Mật
Bỗng soi thấy năm uẩn
Đều không có tự tánh
Thực chứng điều ấy xong
Ngài vượt thoát tất cả
Mọi khổ đau ách nạn
"Nghe đây Xá Lợi Tử"
Sắc chẳng khác gì không
Không chẳng khác gì sắc
Sắc chính thực là không
Không chính thực là sắc
Còn lại bốn uẩn kia
Cũng đều như vậy cả
"Xá Lợi Tử nghe đây"
Thể mọi pháp đều không
Không sanh cũng không diệt
Không nhơ cũng không sạch
Không thêm cũng không bớt
Cho nên trong tánh không
Không có sắc thọ tưởng
Cũng không có hành thức
Không có nhãn, nhĩ, tỷ,
Thiệt, thân, ý, sáu căn
Không có sắc, thanh, hương
Vị, xúc, pháp sáu trần
Không có mười tám giới
Từ nhãn đến ý thức
Không hề có vô minh
Cho đến không lão tử
Cũng không hề lão tử
Không khổ, tập, diệt, đạo
Không trí cũng không đắc
Vì không có sở đắc
Nên một vị Bồ Tát
Nương diệu pháp trí độ
Tâm không còn chướng ngại
Vì tâm không chướng ngại
Nên không có sợ hãi
Xa lìa mọi mộng tưởng
Xa lìa mọi điên đảo
Đạt Niết Bàn tuyệt đối
Chư Phật trong ba đời
Ý diệu pháp trí độ
Nên đắc vô thượng giác
Vậy nên phải biết rằng
Bát Nhã Ba La Mật
Là linh chú đại thần
Là linh chú đại minh
Là linh chú vô thượng
Là linh chú tuyệt đỉnh
Là chân lý bất vọng
Có năng lực tiêu trừ
Tất cả mọi khổ nạn
Cho nên tôi muốn nói
Câu thần chú trí độ
Bát Nhã Ba La Mật
Nói xong Đức Bồ Tát
Liền đọc thần chú rằng:
"Yết đế, yết đế,
Ba là yết đế
Ba la tăng yết đế
Bồ đề Tát bà ha".
Nam mô A di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ,
Đa điệt dạ tha, a di rị đô bà tỳ,
A di rị đa tất đam bà tỳ,
A di rị đa tỳ ca lan đế,
A di rị đa tỳ ca lan đa,
Gì di nị, già già na,
Chỉ đa ca lệ, ta bà ha.
(3 lần)
Tướng Phật Di Đà sánh chẳng qua
Sắc vàng sáng ánh tốt hơn hoa,
Bạch hào chiếu dịu năm non cả,
Thanh nhãn trong đời bốn biển xa,
Trong sáng hoá ra vô số phật,
Hiện hàng Bồ tát cũng Hằng sa,
Lợi sanh Bốn tám lời từ nguyện,
Chín phẩm Liên đài độ chúng ta,
Nam mô Tây phương Cực Lạc Thế giới, Đại từ Đại bi, Tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật.
(3 lần)
Nam mô A Di Đà Phật.
(10 lần)
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
(3 lần)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
(3 lần)
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
(3 lần)
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát.
(3 lần)
Con quỳ lạy Phật chứng minh
Hai hàng Phật tử tụng kinh cầu nguyền,
Cầu cho tín chủ hiện tiền,
Nội gia quyến thuộc bình yên điều hoà,
Thọ trường hưởng phước nhàn ca,
Phổ Môn kinh tụng trong nhà thảnh thơi.
Quan Âm phò hộ vui chơi,
Mười hai câu nguyện độ đời nên danh,
Thiện nam tín nữ lòng thành,
Ăn chay niệm Phật làm lành vái van.
Quan Âm xem xét thế gian,
Rước người chìm nổi mười phương phiêu trầm,
Mau mau niệm Phật Quán Âm,
Tai qua nạn khỏi định tâm sáng loà,
Đương cơn lửa cháy đốt ta,
Niệm danh Bồ tát hoá ra sen vàng.
Gió Đông đi biển chìm thuyền,
Niệm danh Bồ Tát sóng tan hết liền.
Tà ma quỉ báo khùng điên,
Niệm danh Bồ Tát nó càng chạy xa.
Tội tù ngục tối khảo tra,
Quan Âm tưởng niệm thả ra nhẹ nhàng.
Bị trù bị ếm mê mang,
Quan Âm niệm niệm vái van tịnh bình.
Quan Âm thọ ký làm tin,
Tuy duyên thuyết pháp độ mình hết mê.
Nương theo Bồ Tát trở về,
Thấy mình ngồi gốc Bồ đề giống in,
Tay cầm bầu nước tịnh bình,
Tay cầm nhành liễu quang minh thân vàng,
Cam lồ rưới khắp thế gian,
Tốt tươi mát mẻ mười phương thanh nhàn.
Quan Âm cứu hết tai nàn,
Độ đời an lạc mười phương thái bình,
Quan Âm điểm đạo độ mình,
Quan Âm Bồ Tát chứng minh độ đời.
Trì tụng Phổ Môn thâm diệu
Tạo công đức vô biên
Đệ tử xin hồi hướng
Cho chúng sanh mọi miền
Pháp môn xin cầu học
Ân nghĩa xin nguyện đền
Phiền não thề nguyện đoạn
Quả Phật xin chứng nên
Nguyện sanh về tịnh độ
Sen nở thấy vô sanh
Chư Phật và Bồ Tát
Là những bạn đồng hành
Nguyện dứt hết não phiền
Cho trí huệ phát sinh
Các tội chướng tiêu tan
Quả giác ngộ viên thành
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo
Nam mô A Di Đà Phật
Phục nguyện
Ba thân ba cõi, nghìn mắt nghìn tay.
Cờ pháp gió bay, thuyền từ sóng vỗ.
Lòng thương cứu khổ, bi trí ban vui.
Cam lồ nếm mùi, tiêu tan bệnh tật.
Dương chi sái tịnh, sạch sẽ tội khiên.
Đất nước bình yên, nhân dân an lạc.
Vừa rồi, chúng con một dạ chí thành, phúng tụng chơn kinh, có bao công đức, hồi hướng phương Tây, trang nghiêm cõi Tịnh, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu ba đường khổ.
Duy nguyện:
Cầu an chư Phật tử : . . .
Phước huệ song tu, thân tâm an lạc, thường được kiết tường, xa lìa khổ ách, tinh tấn tu
hành, sớm thành đạo quả.
Thứ nguyện:
Cầu siêu chư hương linh ...
Và cửu huyền thất tổ,
Nội ngoại hai bên,
Chiến sĩ trận vong,
Đồng bào tử nạn,
Nương nhờ Tam bảo,
Bước đến đạo tràng,
Nghe kinh nghe kệ,
Sớm thoát đường mê,
Sanh về Cực Lạc.
Phổ nguyện:
Cửa thiền nghiêm tịnh,
Đại chúng an hòa.
Tín chủ được tam đa,
Đàn na thêm ngũ phước.
Âm siêu dương thới,
Pháp giới chúng sanh,
Đồng thành Phật đạo.
Nam mô A Di Đà Phật.
Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát lòng Vô thượng.
(1 lạy)
Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rõ kinh tạng, trí huệ như biển.
(1 lạy)
Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại.
(1 lạy)
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Tịnh Độ Pháp Môn
Các Bài Sám