NGHI THỨC

CẦU AN PHỔ MÔN

Biên Soạn: THÍCH ĐỒNG BỔN

NGUYỆN HƯƠNG

Nguyện đem lòng thành kính,
Gửi theo đám mây hương,
Phưởng phất khắp mười phương,
Cúng dường ngôi Tam bảo,
Thề trọn đời giữ đạo,
Theo tự tánh làm lành,
Cùng pháp giới chúng sanh,
Cầu Phật từ gia hộ,
Tâm Bồ đề kiên cố,
Chí tu học vững bền,
Xa bể khổ nguồn mê,
Chóng quay về bờ giác.

(Xá rồi đọc tiếp bài kệ Tán Phật)

TÁN PHẬT

Đấng Pháp vương Vô thượng,
Ba cõi chẳng ai bằng,
Thầy dạy khắp trời, người,
Cha lành chung bốn loại,
Quy y tròn một niệm,
Dứt sạch nghiệp ba kỳ,
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận.

KỲ NGUYỆN

Đệ tử chúng con, một dạ chí thành, quỳ trước điện Phật, thiết lễ cầu an trì kinh Phổ Môn. Nguyện tiêu tai chướng, nguyện giáng kiết tường. Ngưỡng nguyện Đức Bồ tát Quán Thế m từ bi gia hộ cho não phiền dứt sạch, xa lìa khổ ách, nghiệp chướng tiêu trừ, bốn mùa khoẻ mạnh, thân tâm an lạc, niềm tin vững chắc, phước thọ tăng long, mọi việc hanh thông, gia đình hưng thịnh, quyến thuộc khương ninh, pháp giới chúng sanh cùng lên bờ giác.

NAM MÔ HƯƠNG CÚNG DƯỜNG BỒ TÁT (3 lần)

QUÁN TƯỞNG

Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng,
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới đế châu ví đạo tràng,
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời,
Trước bảo toạ thân con ảnh hiện ,
Cúi đầu xin phát nguyện quy y.

ĐẢNH LỄ

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vi lai thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trú Tam bảo. (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta bà Giáo chủ Điều ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đông Phương Giáo chủ Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật, Đương lai Hạ sanh Di Lặc tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ pháp Chư tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới Đại từ Đại bi A Di Đà Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát, Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát. (1 lạy)

TRÌ NIỆM CHÚ ĐẠI BI
NAM MÔ ĐẠI BI HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT (3 lần)

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni.

Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.

Nam mô tất kiết lật đỏa y mông, a rị da bà lô kiết đế, thất phật ra lăng đà bà.

Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, câu lô câu lô, kiết mông độ lô độ lô, phạt xà da dế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết, tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lỵ thắng yết ra dạ, ta bà ha.

Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da bà lô yết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha.

Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT (3 lần)

TÁN DƯƠNG GIÁO PHÁP

Pháp Phật cao siêu lý rộng sâu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Nay con gặp được xin trì tụng
Nguyện hiểu chơn kinh nghĩa nhiệm mầu.

NAM MÔ PHÁP HOA HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT (3 lần)

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

PHẨM PHỔ MÔN

Lúc bấy giờ, ngài Vô Tận Ý Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vài hữu, chắp tay hướng Phật mà bạch rằng: "Thế Tôn! Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát do nhơn duyên gì mà tên là Quán Thế Âm?".

Phật bảo Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát: "Thiện nam tử!" Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các sự khổ não, nghe Quán Thế Âm Bồ Tát này một lòng xưng danh. Quán Thế Âm Bồ Tát tức thời xem xét tiếng tăm kia, đều đặng giải thoát".

Nếu có người trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy đặng, vì do sức oai thần của Bồ Tát này vậy.

Nếu có người bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Bồ Tát liền đặng đến chỗ cạn.

Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm các thức châu báu như: vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu ... nên vào trong biển lớn.

Giả sử gió bão thổi ghe thuyền của kẻ kia trôi tấp nơi nước của quỷ La Sát, trong đó nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thời những người đó đều đặng thoát khỏi nạn quỷ La Sát, do nhơn duyên đó mà tên là Quán Thế Âm.

Nếu lại có người sắp sẽ bị hại, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thì dao gậy của người kia cầm liền gãy từng khúc mà đặng thoát khỏi.

Nếu quỷ Dạ Xoa cùng La Sát đầy trong cõi Tam thiên Đại thiên muốn đến hại người, nghe người xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thời các quỷ dữ đó còn không có thể dùng mắt dữ mà nhìn người, huống lại làm hại đặng.

Dầu lại có người hoặc có tội, hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thảy đều đứt rã, liền đặng thoát khỏi.

Nếu kẻ oán tặc đầy trong cõi Tam thiên đại thiên, có một vị thương chủ dắt đoàn người buôn đem theo nhiều của báu đi ngang qua đường hiểm trở. Trong đó có một người xướng rằng: "Các thiện nam tử, chớ nên sợ sệt. Các ông phải nên một lòng xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, vị Bồ Tát đó hay đem pháp vô uý thí cho chúng sanh, nếu các ông nếu xưng danh hiệu Ngài thời sẽ đặng thoát khỏi oán tặc này".

Đoàn người buôn nghe xong, đều lên tiếng xưng rằng: "Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát!". Vì xưng danh hiệu Bồ Tát nên liền đặng thoát khỏi.

Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Đại Bồ Tất có sức oai thần rộng lớn như thế.

Nếu có chúng sanh nào nhiều lòng dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền đặng lìa lòng dâm, ý dục.

Nếu người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền đặng lìa lòng giận hờn.

Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền đặng lìa ngu si.

Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát có những sức oai thần rộng lớn, nhiều lợi ích như thế cho nên chúng sanh thường phải một lòng tưởng nhớ đến Ngài.

Nếu có người nữ, giả sử muốn cầu con trai, lễ lại cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát, liền sanh con trai phước đức trí huệ; giả sử muốn cầu con gái, bèn sanh con gái có tướng xinh đẹp, trước đã trồng cội phước đức, mọi người đều kính mến.

Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát có sức oai thần như thế.

Nếu có chúng sanh nào cung kính lễ lạy Quán Thế Âm Bồ Tát, thời phước đức chẳng luống mất, cho nên chúng sanh đều phải thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát.

Vô Tận Ý! Nếu có người thọ trì danh tự của sáu mươi hai ức hằng hà sa Bồ Tát, lại trọn đời cúng dường đồ ăn uống, y phục, giường nằm, thuốc thang. "Ý ông nghĩ sao? Công đức của người thiện nam, người thiện nữ đó có nhiều chăng?"

Vô Tận Ý thưa: "Bạch Thế Tôn! Rất nhiều".

Phật dạy: "Nếu lại có người thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, nhẫn đến một thời lễ lạy cúng dường, thời phước đức của hai người đó bằng nhau không khác, trong trăm nghìn ức kiếp không thể cùng tận.

Vô Tận Ý! Thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát đặng vô lượng vô biên phước đức lợi ích như thế!"

Ngài Vô Tận Ý Bồ tát bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Quán Thế Âm Bồ Tát dạo đi trong cõi Ta bà như thế nào? Nói pháp cho chúng sanh như thế nào? Sức phương tiện việc đó thế nào?".

Phật bảo Vô Tận Ý Bồ Tát: "Thiện nam tử! Nếu có chúng sanh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật đặng độ thoát, thời Quán Thế Âm Bồ Tát liền hiện thân Phật vì đó nói pháp.

Nơi đáng dùng thân Duyên Giác đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Duyên Giác vì đó nói pháp.

Nơi đáng dùng thân Thanh Văn đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Thanh Văn vì đó nói pháp.

Nơi đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Phạm Vương vì đó nói pháp.

Nơi đáng dùng thân Đế Thích đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Đế Thích vì đó nói pháp.

Nơi đáng dùng thân Tự Tại Thiên đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Tự Tại Thiên vì đó nói pháp.

Nơi đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên vì đó nói pháp.

Nơi đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân vì đó nói pháp.

Nơi đáng dùng thân Tỳ Sa Môn đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Tỳ Sa Môn vì đó nói pháp.

Nơi đáng dùng thân Tiểu Vương đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Tiểu Vương vì đó nói pháp.

Nơi đáng dùng thân Trưởng Giả đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Trưởng Giả vì đó nói pháp.

Nơi đáng dùng thân Cư Sĩ đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Cư Sĩ vì đó nói pháp.

Nơi đáng dùng thân Tể Quan đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Tể Quan vì đó nói pháp.

Nơi đáng dùng thân Bà La Môn đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Bà La Môn vì đó nói pháp.

Nơi đáng dùng thân Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di vì đó nói pháp.

Nơi đáng dùng thân phụ nữ của Trưởng giả, Cư sĩ, Tể quan, Bà la môn đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân phụ nữ vì đó nói pháp.

Nơi đáng dùng thân đồng nam, đồng nữ đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân đồng nam, đồng nữ vì đó nói pháp.

Nơi đáng dùng thân Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, Nhơn cùng Phi nhơn đặng độ thoát, Bồ tát liền đều hiện ra vì đó nói pháp.

Nơi đáng dùng thân Chấp Kim Cang Thần đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện Chấp Kim Cang thần vì đó nói pháp.

Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát đó thành tựu công đức như thế, dùng các thân hình, dạo đi trong các cõi nước để độ thoát chúng sanh như thế, vì vậy các ông phải một lòng cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát.

Quán Thế Âm Đại Bồ Tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt hay ban sự vô uý, cho nên cõi Ta bà này đều gọi Ngài là vị Thí Vô Uý.

Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Con nay xin cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát". Ngài liền mở chuỗi ngọc bằng các châu báu nơi cổ giá trị trăm ngàn lượng vàng, đem cúng dường cho Ngài Quán Thế Âm mà nói rằng: "Xin Ngài nhận chuỗi trân bảo pháp thí này".

Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát chẳng chịu nhận chuỗi. Ngài Vô Tận Ý lại thưa cùng Quán Thế Âm Bồ Tát rằng: "Xin Ngài vì thương chúng tôi mà nhận chuỗi ngọc này".

Bấy giờ, Phật bảo Quán Thế Âm Bồ Tát: "Ông nên thương Vô Tận Ý Bồ Tát này và hàng Tứ chúng cùng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhơn và Phi Nhơn v.v... mà nhận chuỗi ngọc đó".

Tức thời Quán Thế Âm Bồ Tát thương hàng tứ chúng và Trời, Rồng, Nhơn, Phi nhơn v.v... mà nhận chuỗi ngọc đó chia làm hai phần: một phần dâng Đức Thích Ca Mâu Ni Phật, một phần dâng vào tháp của Đức Phật Đa Bửu.

"Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát có sức oai thần tự tại như thế, dạo đi nơi cõi Ta bà".

Lúc đó, ngài Vô Tận Ý Bồ tát nói kệ hỏi Phật rằng:

Thế Tôn đủ tướng tốt!
Con nay lại hỏi kia
Phật tử nhơn duyên gì
Tên là Quán Thế Âm
Đấng đầy đủ tướng tốt
Kệ đáp Vô Tận Ý:
Ông nghe hạnh Quán Âm,
Khéo ứng các nơi chỗ,
Thệ rộng sâu như biển,
Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn,
Hầu nhiều nghìn ức Phật,
Phát nguyện thanh tịnh lớn.
Ta vì ông lược nói,
Nghe tên cũng thấy thân,
Tâm niệm chẳng luống qua,
Hay diệt khổ các cõi:
Giả sử sanh lòng hại ,
Xô rớt hầm lửa lớn,
Do sức Niệm Quán Âm,
Hầm lửa biến thành ao.
Hoặc trôi dạt biển lớn,
Các nạn quỷ, cá, rồng,
Do sức niệm Quán Âm
Sóng mòi chẳng chìm đặng.
Hoặc ở chót Tu Di,
Bị người xô rớt xuống,
Do sức niệm Quán Âm,
Như mặt nhựt treo không.
Hoặc bị người dữ rượt,
Rớt xuống núi Kim Cang,
Do sức niệm Quán Âm,
Chẳng tổn đến mảy lông.
Hoặc gặp oán tặc vây,
Đều cầm dao làm hại,
Do sức niệm Quán Âm,
Đều liền sanh lòng lành.
Hoặc bị khổ nạn vua,
Khi hành hình sắp chết,
Do sức niệm Quán Âm,
Đao liền gãy từng đoạn.
Hoặc tù cầm xiềng xích,
Tay chân bị gông cùm,
Do sức niệm Quán Âm,
Tháo ra đặng thoát khỏi.
Nguyền rủa các thuốc độc,
Muốn hại đến thân đó,
Do sức niệm Quán Âm,
Trở hại nơi bổn nhơn.
Hoặc gặp La Sát dữ,
Rồng độc, cái loài quỷ,
Do sức niệm Quán Âm,
Liền đều không dám hại.
Hoặc thú dữ vây quanh,
Nanh vuốt nhọn đáng sợ,
Do sức niệm Quán Âm,
Vội vàng bỏ chạy thẳng.
Rắn độc cùng bò cạp,
Hơi độc khói lửa đốt,
Do sức niệm Quán Âm,
Theo tiếng tự bỏ đi.
Mây sấm nổ sét đánh,
Tuôn giá, xối mưa lớn,
Do sức niệm Quán Âm,
Liền đặng tiêu tan cả.
Chúng sanh bị khổ ách,
Vô lượng khổ bức thân,
Quán Âm sức trí diệu,
Hay cứu khổ thế gian.
Đầy đủ sức thần thông,
Rộng tu trí phương tiện,
Các cõi nước mười phương,
Không cõi nào chẳng hiện.
Các loài trong đường dữ,
Địa ngục, Quỷ, Súc sanh,
Sanh, già, bịnh, chết, khổ,
Lần đều khiến dứt hết.
Chơn quán, thanh tịnh quán,
Trí huệ quán rộng lớn,
Bi quán và Từ quán,
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng,
Sáng thanh tịnh không nhơ.
Huệ nhựt phá cát tối,
Hay phục tai khói lửa,
Khắp soi sáng thế gian.
Lòng bi răng như sấm,
Ý từ diệu dường mây,
Xối mưa pháp cam lồ,
Dứt trừ lửa phiền não.
Cãi kiện qua chỗ quan,
Trong quân trận sợ sệt,
Do sức niệm Quán Âm,
Cừu oán đều lui tan.
Diệu Âm, Quán Thế Âm,
Phạm Âm, Hải Triều Âm,
Tiếng hơn thế gian kia,
Cho nên thường phải niệm.
Niệm niệm chớ sanh nghi,
Quán Âm bậc Tịnh Thánh,
Nơi khổ não nạn chết,
Hay vì làm nương cậy.
Đủ tất cả công đức,
Mắt lành trong chúng sanh,
Biển phước lớn không lường,
Cho nên phải đảnh lễ.

Bấy giờ, ngài Trì Địa Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật bạch rằng: "Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nào nghe phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát đạo nghiệp tự tại, Phổ Môn thị hiện sức thần thông này thời phải biết công đức người đó chẳng ít".

Lúc Phật nói Phẩm Phổ Môn này, trong chúng có tám muôn bốn nghìn chúng sanh đều phát tâm Vô đẳng đẳng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
MÔN PHẨM PHỔ MÔN
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT CHƠN NGÔN:

Án đa rị, đa rị, đốt đa rị, đốt đốt đa rị, ta bà ha. (3 lần)

LỤC TỰ ĐẠI MINH CHƠN NGÔN:

Án ma mi bát di hồng. (21 lần)

TÁN THÁN PHỔ MÔN

Quán Âm đại sĩ,
Tích hiệu Viên Thông,
Mười hai nguyện lớn,
Phát khởi từ tâm,
Tầm thanh cứu khổ,
Chốn chốn hiện thân,
Vân du các cõi,
Cứu thoát trầm luân.

NAM MÔ QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT MA HA TÁT (3 lần)

LỄ 12 LỜI NGUYỆN
(Tuỳ khoá lễ, có thể miễn lạy)

1. Nam mô hiệu Viên Thông, danh Tự Tại, Quán Âm Như Lai, quảng phát hoằng thệ nguyện.
(1 lạy)

2. Nam mô nhứt niệm tâm, vô quái ngại, Quán Âm Như Lai, thường cư Nam Hải nguyện.
(1 lạy)

3. Nam mô trụ Ta Bà u minh giới, Quán Âm Như Lai, tầm thinh cứu khổ nguyện.
(1 lạy)

4. Nam mô hàng ta ma, trừ yêu quái, Quán Âm Như Lai, năng trừ nguy hiểm nguyện.
(1 lạy)

5. Nam mô thanh tịnh bình, thùy dương liễu, Quán Âm Như Lai, cam lồ sái tâm nguyện.
(1 lạy)

6. Nam mô Đại từ bi, năng hỷ xả, Quán Âm Như Lai, thường hành bình đẳng nguyện.
(1 lạy)

7. Nam mô trú dạ tuần, vô tổn hoại, Quán Âm Như Lai, thệ diệt tam đồ nguyện.
(1 lạy)

8. Nam mô vọng nam nham, cần lễ bái, Quán Âm Như Lai, già tỏa giải thoát nguyện.
(1 lạy)

9. Nam mô tạo pháp thuyền du khổ hải, Quán Âm Như Lai, độ tận chúng sanh nguyện.
(1 lạy)

10. Nam mô tiền tràng phan, hậu bảo cái, Quán Âm Như Lai, tiếp dẫn Tây phương nguyện.
(1 lạy)

11. Nam mô Vô Lượng Thọ Phật cảnh giới, Quán Âm Như Lai, Di Đà thọ ký nguyện.
(1 lạy)

12. Nam mô đoan nghiêm thân vô tỷ tái, Quán Âm Như Lai, quả tu thập nhị nguyện.
(1 lạy)

TINH YẾU BÁT NHÃ
BA LA MẬT ĐA

Bồ tát Quán tự tại
Khi quán chiếu thâm sâu
Bát nhã Ba La Mật
Bỗng soi thấy năm uẩn
Đều không có tự tánh
Thực chứng điều ấy xong
Ngài vượt thoát tất cả
Mọi khổ đau ách nạn
"Nghe đây Xá Lợi Tử"
Sắc chẳng khác gì không
Không chẳng khác gì sắc
Sắc chính thực là không
Không chính thực là sắc
Còn lại bốn uẩn kia
Cũng đều như vậy cả
"Xá Lợi Tử nghe đây"
Thể mọi pháp đều không
Không sanh cũng không diệt
Không nhơ cũng không sạch
Không thêm cũng không bớt
Cho nên trong tánh không
Không có sắc thọ tưởng
Cũng không có hành thức
Không có nhãn, nhĩ, tỷ,
Thiệt, thân, ý, sáu căn
Không có sắc, thanh, hương
Vị, xúc, pháp sáu trần
Không có mười tám giới
Từ nhãn đến ý thức
Không hề có vô minh
Cho đến không lão tử
Cũng không hề lão tử
Không khổ, tập, diệt, đạo
Không trí cũng không đắc
Vì không có sở đắc
Nên một vị Bồ Tát
Nương diệu pháp trí độ
Tâm không còn chướng ngại
Vì tâm không chướng ngại
Nên không có sợ hãi
Xa lìa mọi mộng tưởng
Xa lìa mọi điên đảo
Đạt Niết Bàn tuyệt đối
Chư Phật trong ba đời
Ý diệu pháp trí độ
Nên đắc vô thượng giác
Vậy nên phải biết rằng
Bát Nhã Ba La Mật
Là linh chú đại thần
Là linh chú đại minh
Là linh chú vô thượng
Là linh chú tuyệt đỉnh
Là chân lý bất vọng
Có năng lực tiêu trừ
Tất cả mọi khổ nạn
Cho nên tôi muốn nói
Câu thần chú trí độ
Bát Nhã Ba La Mật
Nói xong Đức Bồ Tát
Liền đọc thần chú rằng:
"Yết đế, yết đế,
Ba là yết đế
Ba la tăng yết đế
Bồ đề Tát bà ha".

VÃNG SANH QUYẾT ĐỊNH CHƠN NGÔN

Nam mô A di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ,
Đa điệt dạ tha, a di rị đô bà tỳ,
A di rị đa tất đam bà tỳ,
A di rị đa tỳ ca lan đế,
A di rị đa tỳ ca lan đa,
Gì di nị, già già na,
Chỉ đa ca lệ, ta bà ha.
(3 lần)

SÁM CẦU AN

Con quỳ lạy Phật chứng minh
Hai hàng Phật tử tụng kinh cầu nguyền,
Cầu cho tín chủ hiện tiền,
Nội gia quyến thuộc bình yên điều hoà,
Thọ trường hưởng phước nhàn ca,
Phổ Môn kinh tụng trong nhà thảnh thơi.
Quan Âm phò hộ vui chơi,
Mười hai câu nguyện độ đời nên danh,
Thiện nam tín nữ lòng thành,
Ăn chay niệm Phật làm lành vái van.
Quan Âm xem xét thế gian,
Rước người chìm nổi mười phương phiêu trầm,
Mau mau niệm Phật Quán Âm,
Tai qua nạn khỏi định tâm sáng loà,
Đương cơn lửa cháy đốt ta,
Niệm danh Bồ tát hoá ra sen vàng.
Gió Đông đi biển chìm thuyền,
Niệm danh Bồ Tát sóng tan hết liền.
Tà ma quỷ quái khùng điên,
Niệm danh Bồ Tát bình yên thoát nàn.
Vào rừng cọp rắng nghinh ngang,
Niệm danh Bồ Tát nó càng chạy xa.
Tội tù ngục tối khảo tra,
Quan Âm tưởng niệm thả ra nhẹ nhàng.
Bị trù bị ếm mê mang,
Quan Âm niệm niệm vái van tịnh bình.
Quan Âm thọ ký làm tin,
Tuy duyên thuyết pháp độ mình hết mê.
Nương theo Bồ Tát trở về,
Thấy mình ngồi gốc Bồ đề giống in,
Tay cầm bầu nước tịnh bình,
Tay cầm nhành liễu quang minh thân vàng,
Cam lồ rưới khắp thế gian,
Tốt tươi mát mẻ mười phương thanh nhàn.
Quan Âm cứu hết tai nàn,
Độ đời an lạc mười phương thái bình,
Quan Âm điểm đạo độ mình,
Quan Âm Bồ Tát chứng minh độ đời.

NAM MÔ QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT (10 lần)

NAM MÔ ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT (3 lần)

NAM MÔ THANH TỊNH ĐẠI HẢI CHÚNG BỒ TÁT (3 lần)

LỜI CẦU NGUYỆN

Nguyện ngày an lành đêm an lành
Đêm ngày sáu thời thường an lành
Tất cả các thời đều an lành.
Xin nguyện từ bi thường gia hộ.
Xin nguyện Tam bảo thường gia hộ.
Xin nguyện Hộ pháp thường ủng hộ.

NAM MÔ TIÊU TAI GIÁNG KIẾT TƯỜNG BỒ TÁT (3 lần)

TIÊU TAI KIẾT TƯỜNG THẦN CHÚ

Nam mô tam mãn đa mẫu đà nẫm, a bát ra đệ hạ đa xá, ta nẵng nẩm, đát điệt tha. Án khê khê, khê hế, khê hế hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, đệ sắc sá, đệ sắc sá, sắc trí rị, sắc trí rị, ta phấn tra, ta phấn tra, phiến ca, thất rị duệ, ta phạ ha.

HỒI HƯỚNG

Trì tụng Phổ Môn thâm diệu
Tạo công đức vô biên
Đệ tử xin hồi hướng
Cho chúng sanh mọi miền
 
Pháp môn xin cầu học
Ân nghĩa xin nguyện đền
Phiền não thề nguyện đoạn
Quả Phật xin chứng nên
 
Nguyện sanh về tịnh độ
Sen nở thấy vô sanh
Chư Phật và Bồ Tát
Là những bạn đồng hành
 
Nguyện dứt hết não phiền
Cho trí huệ phát sinh
Các tội chướng tiêu tan
Quả giác ngộ viên thành
 
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo

3 PHÁP NGUYỆN QUY Y

Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo Đạo cả, phát lòng Vô thượng.
(1 lạy)

Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rõ Kinh tạng, trí huệ như biển.
(1 lạy)

Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại.
(1 lạy)


Nguồn tham khảo

Nghi Thức Cầu An Phổ Môn